CLINICAL AND PARACLINICAL CHARACTERISTICS OF MAJOR NAS AL FRACTURES OF PATIENTS AT THE DEPARTMENT OF OTOLARYNGOLOGY, THAI NGUYEN GENERAL HOSPITAL

Phuong Thuy Ta , Cong Hoang Nguyen, Duy Ninh Tran

Main Article Content

Abstract

Objectives: To describeles clinical and paraclinical characteristics of major nasal fractures of patients at the department of Otolaryngology, Thai Nguyen general hospital. Material and methods: Patients with major nasal fractures alone or in combination were treated and monitored at the Department of Otolaryngology, Thai Nguyen General Hospital from July 2021 to November 2022. Cross- sectional descriptive study of case clusters - Prospective study design. Direct interviews with patients according to a pre- designed questional that combines clinical examination, nasal endoscopy, X-ray results and CT.Scanner of the nose. Results: From the results of the study on 52 patients with major nose fractures at Thai Nguyen General Hospital we found that: Most were male (73.1%), the rate of male /female: 2.7/1. The age group was mainly found in the age group of 15 - < 30 years old (46.2%) and the age group 30 - < 50 had 23/52 (44.2%). Cause of nasal fractures is mainly traffic accident 29/52 (55.8%). The most common clinical symptoms were pain 100%, a deformity of the nose and swelling and bruising were (98.1%), epistaxis accounted for a high rate (82.7%), with a sharp pain of nose fractures score (78,8%), there were signs of bone crunching in the nasal main bone (32.7%), deviated septum during endoscopy (51.9%).52/52 (100%) were scanned with CT.Scanner, in which type I was 59.6%, type II was 25%, type III was 15.4%; 44/52 (84.6%) X-ray film of the straight face, in which the lesion type I is 95.5%, type II is 4.5%. Conclusions: External force applied to the nasal bone can also lead to coexistent fracture of adjacent bony structures including the nasal septum. The proposed classification of nasal fracture based on CT.Scanner imaging helps to incorporate coincident disruption of adjacent structures.

Article Details

References

1. Pham TT, Lester E, Grigorian A, Roditi RE, Nahmias JT. National Analysis of Risk Factors for Nasal Fractures and Associated Injuries in Trauma.
Craniomaxillofacial Trauma & Reconstruction. 2019;12(3):221-227.
2. Hwang, K., Jung, J. S., & Kim, H. (2018). Diagnostic Performance of Plain Film, Ultrasonography, and Computed Tomography in Nasal Bone Fractures: A Systematic Review. Plastic surgery (Oakville, Ont.), 26 (4), 286–292. https://doi.org/10.1177/2292550317749 535
3. Phùng Minh Lương (2022). Mô tả đặc điểm lâm sàng gãy xương chính mũi tại Bệnh viện Chợ Rẫy từ năm 2017- 2018. Tạp chí khoa học Đại học Tây Nguyên, 16(52), tr. 76-81.
4. Bộ Y tế (2015). Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị một số bệnh về tai mũi họng (ban hành kèm theo Quyết định số 5643/QĐ-BYT ngày 31/12/2015 của Bộ trưởng Bộ Y tế). Bộ Y tế. tr. 292- 296.
5. Li, L., Zang, H., Han, D., Yang, B., Desai, S. C., & London, N. R. (2020).
Nasal Bone Fractures: Analysis of 1193 Cases with an Emphasis on Coincident Adjacent Fractures. Facial plastic surgery & aesthetic medicine, 22(4), 249-254. https://doi.org/10.1089/fpsam.2020.002 6.
6. Hà Hữu Tùng, Đỗ Thế Hùng (2017). “Nhận xét về nguyên nhân, triệu chứng, chẩn đoán và điều trị các bệnh nhân gãy xương chính mũi gặp tại Bệnh viện Đa khoa Nông Nghiệp từ 2011-2016”. Y học Việt Nam, 451, 163–169.
7. Trần Thị Phương (2009), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và chụp cắt lớp vi tính của chấn thương tháp mũi, Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ Y khoa, Trường Đại học Y Hà Nội.
8. Bùi Viết Tuấn (2018). Nghiên cứu hình thái lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh gãy xương chính mũi và đánh giá kết quả điều trị gãy xương chính mũi, Luận văn Thạc sĩ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội.
9. Nguyễn Đức Nhự và Trần Anh Tuấn, (2021). “Đặc điểm tổn thương ở các trường hợp chấn thương mũi, xoang qua giám định pháp y”. Tạp Chí Y học Việt Nam, 506 (2). https: //doi.org/10.51298/vmj.v506i2.1291.
10. Hoàng Kim Khang, Nguyễn Hoàng Linh (2022). “Đánh giá kết quả điều trị gãy xương chính mũi tại Bệnh viện Đa khoa Sài Gòn”. Tạp Chí Y học Việt Nam, 511(1). https: //doi.org/10.51298/vmj.v511i1.2033.